Châm cứu có từ khi nào?

Lịch sử hình thành châm cứu 

Châm cứu bắt nguồn từ thời đồ đá (trên 4000 năm trước Công nguyên). Theo nguyên từ ‘Acupunture’ tiếng La Tinh là Acus (nhọn), Punturus (điểm, dấu chấm), dùng vật nhọn đâm vào huyệt.

Người xưa thoạt tiên dùng đá mài nhọn làm kim châm (biêm thạch) hoặc dùng xương để châm (cốt châm), hoặc tre vót nhọn (trúc châm). Khi loài người từ thời đồ đá chuyển sang thời đại đồ đồng thì kim bằng đồng, có diện tích mũi kim nhỏ (vi châm) cũng dần dần thay thế các kim bằng xương, tre, đá thô sơ, để rồi kim bằng vàng, bạc xuất hiện.

Hiện nay trên thế giới đang thông dụng các loại kim làm bằng những hợp chất kim loại không rỉ, có độ bền cao… Thế giới cũng đang nghiên cứu xử dụng châm bằng tia Laser, bằng âm thanh… không tạo nên cảm giác đau như khi châm kim thông thường nhưng hiệu quả vẫn có thể không kém như châm cứu cổ điển.

Tài liệu châm cứu cổ nhất

Quyển sách được coi là xưa nhất về Châm cứu là quyển ‘Nội Kinh Linh Khu’ viết cách đây gần 3000 năm (770-221 trước Công Nguyên). Trong quyển sách Châm cứu xuất bản ở NewYork năm 1973, Felix Mann cho biết rằng ở viện bảo tàng LonDon có giữ 1 bản vẽ về các đường kinh của con người từ năm 1550 trước Công Nguyên.

Thế kỷ thứ 3, đời nhà Tấn, Hoàng-Phủ-Mật (21-282) dựa theo sách ‘Nội Kinh’ và ‘Minh Đường Khổng Huyệt Châm Cứu Trị Yếu’ soạn ra quyển ‘Châm Cứu Giáp Ất Kinh’, xác định được 349 huyệt.

Đời nhà Đường, thế kỷ thứ 7, đã tổ chức ‘Thái Y Thư’ để dạy Châm cứu (đây có lẽ là trường dạy đầu tiên về châm cứu), trong đó có 1 thầy dạy, 1 trợ giáo, 10 thầy thuốc, 20 châm y và 20 châm sinh.

Thế kỷ 11, đời nhà Tống, Vương-Duy-Nhất soạn ra ‘Đồng Nhân Du Huyệt Châm Cứu Đồ Kinh, xác định lại tên 364 huyệt, chủ trị và cách châm.

Đồng thời ông cho đúc 2 pho tượng đồng cao to bằng người thật, trên đó khắc huyệt và ghi tên huyệt để dạy.

Thế kỷ 16, đời nhà Minh, Dương-Kế-Châu soạn quyển ‘Châm Cứu Đại Thành’, gồm 10 quyển, dựa theo quyển ‘Huyền Cơ Bí Yếu’ và tổng hợp kinh nghiệm riêng cũng như thu thập hầu hết các tinh hoa của các cuốn sách trước đó, vì vậy, quyển ‘Châm Cứu Đại Thành có giá trị rất cao và được coi là nền tảng của châm cứu cổ điển.

Sau quyển Châm Cứu Đại Thành, có khá nhiều quyển sách khác nhưng nội dung không có gì mới lạ hơn sách Châm Cứu Đại Thành…

Đến năm 1974, quyển sách ‘Châm  Cứu Học’ của Thượng Hải ra đời, giới thiệu châm cứu rõ hơn, nhất là về phương diện giải phẫu, thần kinh, đồng thời sách này cũng giới thiệu hầu như toàn bộ các loại châm mới như: Châm Tê, Diện Châm, Điện Châm, Đầu Châm, Nhĩ Châm, Thủ Châm, Túc Châm, Xích Y Châm… được coi là quyển sách giáo khoa tương đối đầy đủ nhất về châm cứu.

Lịch sử châm cứu tại Việt Nam

Tại Việt Nam, châm cứu đã có khá lâu và tương đối có đủ tài liệu biên soạn.

Thời vua Hùng (287-207 trước công nguyên), trong ‘Lĩnh Nam Trích Quái’ có ghi tên thầy châm cứu giỏi là An-Kỳ-Sinh, người làng Đông Triều, vào thế kỷ thứ 2, đã dùng châm cứu trị cho 1 người tên là Thôi-Văn-Tứ ở Cao Lễ, Chí Linh.

Đời Thục An Dương Vương(257-207 trước công nguyên), sách sử ghi: Thôi-Vĩ, con của Thôi-Lạng được Ma Cô Tiên cho tấm lá ngải, chuyên dùng để trị các bệnh có thịt thừa (nhục anh). Thôi Vĩ đã dùng tấm ngải này chữa khỏi cho đạo sĩ Ưng-Huyền, Nhâm-Ngao. Vì thế, có lẽ Thôi-Vĩ là người đầu tiên biết dùng phép cứu để trị bệnh.

Đời nhà Trần, dưới triều vua Trần Dụ Tông, Trâu-Canh dùng châm cứu cứu sống thái tử Hạo (con vua Trần Minh Tông) khỏi chết đuối, sau đó, khi thái tử Hạo lên ngôi (tức vua Trần Dụ Tông) lại cho mời Trâu-Canh làm ngự y và chữa cho nhà vua khỏi bệnh liệt dương.

Đời nhà Hồ (1401-1407), Nguyễn-Đại-Năng viết quyển ‘Châm Cứu Tiệp Hiệu Diễn Ca’, đây là quyển sách châm cứu đầu tiên biên soạn 1 cách công phu, được nhà xuất bản Y Học dịch và in năm 1981.

Thế kỷ 15, Nguyễn-Trực trong ‘Bảo Anh Lương Phương’ có đề cập đến phép cứu huyệt để trị bệnh cho trẻ nhỏ.

Thế kỷ 17, Lý-Công-Tuân viết ‘Châm Cứu Thủ Huyệt Đồ’và ‘Châm Cứu Tiệp Hiệp Pháp’ bằng tiếng Nôm.

Thế kỷ 18, Lê-Hữu-Trác, trong ‘Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh’ có nêu lên 1 số cách châm cứu trị bệnh cho trẻ nhỏ.

Vào thời kỳ Pháp thuộc, vì bị cấm đoán không được công khai hành nghề, do đó, không được phát triển rộng rãi, mãi đến khi đất nước giành được độc lập, môn châm cứu mới được quan tâm, thừa kế và phát triển.

Tháng 10 năm 1968, Hội Châm Cứu Việt Nam được thành lập.

Năm 1982, Viện Châm Cứu tại Việt Nam được thành lập.

Tại châu Âu, ngay từ những năm đầu thế kỷ 20, phương Tây đã biết đến Châm cứu, tuy nhiên, không thể phát triển được ở Âu Châu.

Phải chờ đến những năm 1940 trở đi, khi châm cứu được áp dụng thành công trong việc gây tê giải phẫu, và sau đó năm 1957, khi Paul Nogier công bố những công trình nghiên cứu khoa học của ông về Nhĩ Châm, lúc đó, thế giới mới bắt đầu quan tâm tìm kiếm, nghiên cứu và học hỏi 1 cách sâu xa…

Nhờ tiến bộ về khoa học thực nghiệm, Âu Châu đã có những công trình nghiên cứu hết sức lớn lao, đóng góp cho ngành châm cứu giải quyết được rất nhiều vấn đề từ cơ bản đến thực nghiệm lâm sàng, đặc biệt những công trình khảo cứu sâu về cơ chế hệ thần kinh, cơ chế của châm giảm đau, châm gây tê…

Châm cứu được ông cha chúng ta tiếp thu và truyền thụ lại, đó là 1 di sản quý báu mà chúng ta cần thừa kế, nghiên cứu và phát huy.

châm cứu

Sơ lược về lazer châm

Một trong hai đóng góp to lớn cho khoa học kỹ thuật của ngành vật lý trong thế kỷ 20 là laser. Năm 1960, chiếc máy laser đầu tiên ra đời do nhà bác họcòmaiman (Mỹ) chế tạo, và từ đó thành tựu này được ứng dụng rộng rói trong các chuyên ngành khác nhau trong đó có y học. Hiện nay laser được ứng dụng rộng rói trong các chuyên ngành khác nhau của y học bởi nó có các tính chất rất đặc biệt, đó là: tính đơn sắc, độ định hướng và độ chúi phổ rất cao.

Việc sử dụng ánh sáng đơn sắc phát ra từ một thiết bị laser cụng suất thấp (<=250 milliwatt) chiếu vào các huyệt trên hệ thống kinh lạc giúp cơ thể lập lại thăng bằng âm dương nhằm mục đích điều trị và phòng bệnh được gọi là laser châm.

Laser châm được chỉ định tương đối rộng rói để điều trị các chứng bệnh. Tuy nhiên, trên lâm sàng laser châm được chỉ định chủ yếu để điều trị các chứng đau và các chứng liệt. Laser châm có thể dùng đơn độc, có thể kết hợp laser châm với điện châm, laser châm với xoa bóp bấm huyệt.  Laser châm điều trị các chứng đau: đau vai gáy, đau quanh khíp vai, đau lưng, đau thần kinh toạ, hội chứng đường hầm cổ tay…

Laser châm điều trị các chứng liệt: liệt nửa người do các nguyên nhân khác nhau, liệt dây thần kinh VII ngoại biên…

Hiện nay, laser châm được chỉ định chủ yếu để điều trị các chứng đau (đau vai gáy, đau quanh khớp vai, đau lưng, đau thần kinh tọa, hội chứng ống cổ tay…), các chứng liệt (liệt nửa người do các nguyên nhân khác nhau, liệt dây thần kinh số 5, liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên…) và rối loạn chức năng cơ thể (viêm mũi – xoang, mất ngủ, hen phế quản…).
Đặc biệt, laser châm thích hợp cho trường hợp giảm đau ở người bệnh mạn tính, người bệnh cao tuổi có chỉ định hạn chế dùng thuốc giảm đau, trẻ em…
lazer châm-châm cứu

 


Giới thiệu kết nối cộng đồng Y KHOA LD

fanpage facebook: Dụng cụ y khoa 36

Youtube: Y khoa LD

Trả lời